Trước năm 1945, đất Kim Lan hết sức phức tạp của sự sở hữu và sử dụng, nơi tư điền và công điền đan xen trong lịch sử làng gốm cổ. Tư điền, đất cá nhân của chủ đất, thể hiện quyền lợi và gắn liền với những câu chuyện buồn về việc bán đất trong những thời kỳ khó khăn. Đất công, quản lý bởi Hội đồng tộc, đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ và phân chia cho cộng đồng.
Chuyển Giao Đất Chiêm Mai và Đất Lão: Dấu Vết của Thời Gian
Đất Chiêm Mai và Đất Lão, một thời là mảnh đất quý giá của Kim Lan, giờ đây nằm ở phía Bắc sông, tạo nên một bức tranh biến đổi đất đai của làng qua các thập kỷ. Câu chuyện về sự hoang hóa của Chiêm Mai và sự tái sinh của nó thông qua việc trở thành khu vực chợ gốm Bát Tràng là minh chứng cho sự đổi mới và phát triển.
Lớn Lên với Sông Hưng Thái-Ninh: Nước Mở Đường và Đất Đỏ Lửa
Năm 1955, việc "dẫn thủy nhập điền" đã thay đổi bức tranh của Kim Lan khi sông Hưng Thái-Ninh chảy qua làng. Đất Chiêm Mai và Đất Lão nằm ở phía Bắc sông, và đất đai của làng chuyển động từ đất ngoài bãi sang đất trong đồng. Sự đổi mới này không chỉ tạo ra đất đỏ lửa mà còn định hình lại cảnh quan nông nghiệp.
Cuộc Chiến và Sự Đóng Đinh Lịch Sử: Đất Ruộng và Hành Trình Xây Cầu 179
Những năm 1960, cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kết hợp với việc mở cầu phao Khuyến Lương, tạo ra con đường chiến lược 179. Kim Lan một lần nữa hiến đất ruộng để mở rộng con đường này, gắn kết làng với lịch sử chiến tranh và phát triển đường sự.
Chặng Đường Hợp Nhất và Hợp Tác Xã: Đất Đỏ và Cội Người Kim Lan
Năm 1967, sự hợp nhất của 10 hợp tác xã thành Hợp tác xã Nông nghiệp Kim Lan đã tạo ra sự hợp nhất không chỉ trong quản lý đất đai mà còn trong cộng đồng làng gốm. Những đất ruộng trải rộng trở thành biểu tượng cho sự đoàn kết và phát triển kinh tế.
Hành Trình 500 Năm: Kim Quan Sở và Kim Quan Đông - Sự Di Dời và Tìm Kiếm Đất Nước Mới
Cuối cùng, chúng ta nhìn lại quá khứ khi những người của Kim Quan Đông và Kim Quan Sở đã bắt đầu cuộc hành trình mới, từ việc di dời đến việc chuyển giao đất đai. Câu chuyện này là một phần quan trọng của sự phát triển và đổi mới trong lịch sử lâu dài của làng gốm cổ Kim Lan.
Tình hình Các Xóm Tại Làng Gốm Cổ Kim Lan.
Trước kia, xã Kim Lan có tổng cộng 16 xóm, mỗi xóm đặt tên dựa trên các đặc điểm địa lý và văn hóa riêng biệt.
Xóm Chùa: Nằm gần chùa Cả, còn được gọi là xóm Nội do thường xuyên có sự giúp đỡ từ dân cư cho công việc nhà chùa. Sư trụ trì thường nói về nó như "Xóm Nội của tôi".
Xóm Đình: Từ đầu đình ra bờ sông, tiếp đến là xóm Và và xóm Dụ chạy theo mép sông xuôi. Xóm Dụ nổi tiếng với nhà cụ Cửu Quýnh.
Xóm Thượng và Xóm Triền: Nằm giáp sông, cách đồng Văn Chỉ, đồng Giáo Nguyên, đồng Cạnh Triền, đến xóm Bến.
Xóm Bến: Nổi tiếng với bến đò cổ kính ở gần bến sông.
Xóm Mả Cuối (sau đổi gọi là xóm Thạch Đài): Nằm ở phía Đông xóm Bến, gần đồng Mả Cuối.
Xóm Chợ: Đối diện là xóm Bệ, có bệ thờ thổ thần.
Xóm Đìa: Nằm dưới đường, gần một rãnh nước có tên là Đìa.
Xóm Gồ Đình: Có một gò đất cao, trước đây có miếu thờ.
Xóm Lẽo: Có đường lầy lội và cây cối um tùm.
Xóm Hậu và Xóm Cái Ngang (sau đổi xóm Lựa): Chạy từ phía Nam lên phía Bắc của làng.
Xóm Đầu Cổng (sau đổi gọi là xóm Đại Bàng): Gia đình làm nhà và mở lò gốm, sau đó chuyển đến xã Bát Tràng.
Cùng với đó, xã Kim Lan được chia thành 8 thôn từ năm 2000, mỗi thôn được đặt tên theo đội sản xuất theo thứ tự chữ số.
Thôn
Thôn 1: Bao gồm xóm Đại Bàng cũ và dân chạy lở năm 1971.
Thôn 2: Gồm xóm Chùa và một phần xóm Hậu.
Thôn 3: Phần còn lại của xóm Hậu cũ và những người được cắm đất giãn dân.
Thôn 4: Gồm xóm Gồ Đình, xóm Lẽo, và một phần đầu phía Bắc của xóm Cái Ngang.
Thôn 5: Phần còn lại của xóm Cái Ngang và xóm Đìa.
Thôn 6: Gồm xóm Bệ và xóm Triền.
Thôn 7: Gồm xóm Bến.
Thôn 8: Từ Mả Cuối đến xóm Chợ.
Dân Cư
Theo bản danh sách nộp thuế của làng Kim Quan vào ngày 2-5 Canh Dần (1950?), làng có 28 giáp, 1087 người phải nộp thuế thân.
Theo thống kê năm 1956, làng có 505 hộ, 2310 người. Dân số phân bố từ trẻ em đến người già, với nhiều gia đình có số con ít, và chỉ có 4 người sống đến 80 tuổi trở lên.
Cơ Sở Hạ Tầng
Giếng Nước
Giếng Đình: Hình chữ nhật, nằm ở trước cửa đình và chùa, là nguồn nước chính của các xóm quanh đình.
Giếng Thạch Đài: Nằm ở cuối làng, có hình tròn, bờ giếng xây gạch, có cây đa cổ thụ.
Giếng Cửa Quán Tuần Bãi: Nằm giữa đồng, được sử dụng chủ yếu bởi xóm Chợ và xóm Bệ.
Đường Đi
Trước đây, đường làng ngõ xóm ở Kim Lan đều là đường đất. Con đường từ đầu làng đi qua Cánh Buồm, Hàng Nhạn lên quán Diệc rẽ sang Xuân Quan, hai bên đều là ruộng và chỉ rộng độ 1m. Tại đầu làng phía Bắc, có con đường đi từ đình, chùa qua giữa xóm Chùa lên đầu xóm, qua các cánh ruộng Chung Tàu, xóm Bông Lau, ruộng đất Kim Quan sở và đất Lò Kèo, là đến xóm Đầu Cổng, sang Bát Tràng. Người đi làm đồng hoặc muốn đi lên bến Bát Tràng, đi chợ Bún, chợ Gỏi đều phải đi theo con đường này là chính.
Kim Quan trước đây có bến đò qua sông Nhị nằm ở phía dưới kè cụ Hàn Quýnh, đối diện với bên kia là xóm Lò của làng Thuý Lĩnh. Bến đò Kim Quan khá đông
người qua lại, được sách Đại Nam nhất thống chí ghi là một trong 8 bến đò qua sông Nhị của tỉnh Bắc Ninh. Người các huyện Gia Lâm, và Văn Giang đi theo đường cửa đình Kim Quan để ra sông; người từ các làng Nam Dư, Thuý Lĩnh ở bờ Nam đi chợ Văn Giang cũng phải qua lối này. Sau năm 1930, cụ Hàn Quýnh sắm ôtô con, con đường đất nhỏ hẹp của làng Thuý Lĩnh từ dốc đề ra bến đò được cụ mua đất của dân hai bên đường mở rộng 3-4m để ôtô đi được. Sau khi đến điểm đỗ, cụ xuống đò về nhà ở xóm Dụ ở bờ bên kia sông. Tại gần bến đò, cụ cho xây một cái quán 3 gian để ôtô qua đêm. Khi xây quán, cụ bị Tri huyện Thanh Trì hạch sách, nhưng trước sau cụ đều lý luận rằng: “Đất làng tôi ở bờ Bắc bị lở, nay bồi ở phía Nam, dân tôi cũng được hưởng lợi chứ!". Cuối cùng quan huyện Thanh Trì cũng lặng im không thấy đả động đến chuyện đó nữa.
Việc đi lại qua đò khá phiền phức, sau đó cụ Hàn Quýnh tìm lối đi qua xã Xuân Quan. Cụ đi ôtô từ Hà Nội qua Cầu Long Biên, xuôi đê sông Hồng, xuống dốc qua cửa đình Xuân Quan để về nhà. Đoạn đường ông đi qua được mở rộng, dù phạm vào đất của làng Kim Quan hay Xuân Quan đều được ông đền bù thỏa đáng. Dân có đường đi rộng rãi và lại được tiền tiêu nên họ rất vui và biết ơn cụ. Đường mở xong rồi, chỉ hiểm một nỗi, ôtô của cụ phải chạy qua cửa đình Xuân Quan. Tại cửa đình cô biển khắc hai chữ “hạ mã”, từ xưa quan quân khi qua
đây đều phải xuống ngựa, còn xe của ông phải nổ máy có người lái thì mới đi qua được, vậy thời phải tính sao đây? Nhưng bấy giờ, cụ Hàn Quýnh là người có thế lực, được phong “Hàn lâm kiểm bạ chương mỹ bội tinh" cho nên lý trưởng làng Xuân Quan vẫn phải nể để xe của cụ đi qua. Sau đó, để thấu tình đạt lý, cụ Hàn Quýnh sửa lễ gồm 1 con lợn, 1 mâm xôi, cùng hoa quả trầu rượu để cụ Lai là lý trưởng Xuân Quan lễ tạ thần ở định. Từ quan hệ này, cụ Quýnh đã chạy cho lý trưởng Xuân Quan được phong Bá hộ nên từ đó mới gọi cụ Bá Lai. Đường cụ Hàn Quýnh được hình thành hơn 70 năm trước và nay chính là một nửa của đường chiến lược 179.
Cổng Ngõ
Cổng ngõ của những ngôi nhà bình dân thường được làm bằng tre, với cánh cổng đơn giản là các đoạn thân tre buộc lại. Những ngôi nhà cao cấp có cổng xây bằng gạch, với vòm cuốn và trang trí hoa văn.
Tuy nhiên, nhiều cổng ngõ đã bị phá hoặc bị ngập do tác động của phù sa bồi.
Nhà bình dân, hai cột cổng bằng tre, bên trên cột ở độ cao 2m, đục lỗ cho suốt ngang. Cánh cổng cũng bằng các đoạn thân tre độ 6 đoạn, đều có tra bua. Đơn giản hơn cánh cổng buộc bằng hai ngon tre uốn cong, rồi buộc vài cành gai tre vào giữa các khe của đoạn tre. Có người ở nhà, cổng chống lên; khi đi vắng cổng được hạ xuống gọi là cổng chống.
Nhà tương đối khá có cổng xây gạch. Lối vào xây vòm cuốn, có hai cánh gỗ. Bên trên vòm cổng trang trí hoa văn, và đắp nổi chữ số năm xây cổng. Hai bên cột cổng có đắp câu đối, nội dung ca ngợi cảnh đẹp của làng xóm, sự phong lưu của gia chủ. Nhà có chân quan viên, hoặc các ông đồ, người thích chữ nghĩa, còn đắp nổi vài chữ nho làm hiệu như: 武門(Vũ môn),黎門(Lê môn)....
Trước đây ở làng Kim Lan, có nhiều nhà xây cổng. Tại xóm Chùa, đường chỉ dài độ 200m đã có 8 cái cổng, trong đó cổng ngõ nhà cụ Nguyễn Thiện Đa, cụ Ba Hưởng, cụ Nguyễn Văn Tráng, cụ Nguyễn Văn Lẫm, cụ Nguyễn Văn Phòng, cụ Khán Tài, cụ Chùm Phi...
Hai cột cổng nhà cụ Nguyễn Thiện Đa có đắp đôi
câu đối:
西北珥河加吉妙 前門聚水利亨通
Tây bắc Nhị hà gia cát diệu;
Tiền môn tụ thủy lợi hanh thông. Cổng ngõ nhà cụ Phòng, hai cạnh vòm cuốn đắp hai bông hoa đối xứng nhau, giữa mỗi bông hoa có chữ
điền. Tại hai cột cổng có câu đối:
門通玩境連風水 內到門前五色春
Môn thông ngoạn cảnh liên phong thủy; Nội đáo môn tiền ngũ sắc xuân.
Cổng ngõ mỗi nhà mỗi vẻ, góp phần làm đậm thêm chiều sâu của một làng văn hiến. Nhưng hơn 60 năm qua, do phù sa bồi trúc, nhiều cổng ngõ đã bị ngập hai phần ba trong đất, một số khác bị phá đi. Hiện ở xóm Chùa chỉ còn dấu tích cổng nhà cụ Tráng bị ngập sâu trong đất 1,5m.